Lịch sử hoạt động Bayern_(lớp_thiết_giáp_hạm)

Bắn phá Sunderland

Trong đợt xuất quân của hạm đội vào ngày 18-19 tháng 8 năm 1916, Đội Tuần tiễu 1, vốn là lực lượng tàu chiến-tuần dương trinh sát của Hạm đội Biển khơi dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Franz von Hipper, có nhiệm vụ bắn phá thị trấn ven biển Sunderland nhằm thu hút và tiêu diệt các tàu chiến-tuần dương Anh dưới quyền Đô đốc David Beatty. Do chỉ còn hai tàu chiến-tuần dương có khả năng tác chiến là MoltkeVon der Tann sau trận Jutland, Đội Tuần tiễu 1 được tăng cường thêm ba thiết giáp hạm gồm Bayern cùng hai chiếc thuộc lớp König,Grosser Kurfürst và,Markgraf. Đô đốcReinhard Scheer cùng phần còn lại của Hạm đội Biển khơi với 15 thiết giáp hạm sẽ theo sau để bảo vệ.[17] Phía Anh đã biết được kế hoạch của Đức và đã cho toàn bộ Hạm đội Grand xuất trận để đối đầu. Đến 14 giờ 35 phút, Scheer được cảnh báo về sự xuất hiện của lực lượng đối phương áp đảo, và vì không muốn đối đầu với toàn bộ Hạm đội Grand chỉ mười một tuần sau khi trận Jutland kết thúc, nên đã quay mũi lực lượng của mình rút lui trở về các cảng Đức.[18]

Chiến dịch Albion

Bài chi tiết: Chiến dịch Albion

Vào đầu tháng 9 năm 1917, sau khi Đức chiếm được cảng Riga của Nga, Hải quân Đức quyết định xóa sổ lực lượng Hải quân Nga vốn còn đang trụ lại vịnh Riga. Nhằm mục đích này, Bộ Tổng Tư lệnh Hải quân (Admiralstab) vạch ra một chiến dịch tại quần đảo Moonsund, đặc biệt nhắm vào các khẩu đội pháo Nga trên bán đảo Sworbe thuộc Ösel.[19] Ngày 18 tháng 9, mệnh lệnh được đưa ra cho một chiến dịch phối hợp Lục-Hải quân nhằm chiếm các đảo Ösel và Moon; lực lượng hải quân chủ yếu bao gồm soái hạm Moltke cùng với Hải đội Chiến trận 3 của Hạm đội Biển khơi, gồm có thiết giáp hạm mới Bayern vào lúc này được bổ sung vào Đội 5 vốn còn bao gồm bốn chiếc lớp König, và Đội 6 bao gồm năm chiếc lớp Kaiser. Cùng với chín tàu tuần dương hạng nhẹ, ba chi hạm đội tàu phóng ngư lôi cùng nhiều tàu rải mìntàu quét mìn, toàn bộ lực lượng bao gồm khoảng 300 tàu chiến, được sự hỗ trợ của trên 100 máy bay và sáu khí cầu zeppelin. Lực lượng tấn công gồm khoảng 24.600 sĩ quan và binh sĩ.[20] Đối đầu với lực lượng Đức là các thiết giáp hạm tiền-dreadnought cũ của Nga SlavaTsarevitch, các tàu tuần dương bọc thép Bayan, Admiral Makarov và Diana, 26 tàu khu trục, nhiều tàu phóng lôi và pháo hạm, cùng một lực lượng đồn trú tại Ösel với khoảng 14.000 người cùng các khẩu đội pháo phòng thủ duyên hải.[21]

Chiến dịch bắt đầu vào ngày 12 tháng 10, khi Moltke, Bayern cùng bốn thiết giáp hạm lớp König bảo vệ cho việc đổ bộ lực lượng bằng cách áp chế các khẩu đội pháo bờ biển đang bảo vệ vịnh Tagga.[21] Cùng lúc đó, những chiếc thuộc lớp Kaiser đối đầu với các khẩu đội trên bán đảo Sworbe; mục tiêu là nhằm bình định eo biển giữa các đảo Moon và Dagö, án ngữ lối thoát duy nhất của các con tàu Nga trong vịnh. Cả Grosser Kurfürst lẫn Bayern đều bị trúng mìn trong lúc cơ động vào vị trí bắn phá, Grosser Kurfürst chỉ bị hư hại nhẹ; tuy nhiên Bayern bị hư hại đáng kể, công việc sửa chữa tạm thời cho nó không mang lại hiệu quả. Con tàu phải rút lui về Kiel để sửa chữa, chuyến quay trở về của nó đi mất 19 ngày.[21]

Cuộc xuất quân ngày 23-24 tháng 4 năm 1918

Baden trên đường đi

Vào cuối năm 1917, Hạm đội Biển khơi bắt đầu tiến hành các cuộc cướp phá đoàn tàu vận tải bằng những đơn vị hạng nhẹ tại Bắc Hải giữa Anh và Na Uy. Vào ngày 17 tháng 10, các tàu tuần dương hạng nhẹ Đức BrummerBremse đánh chặn một đoàn tàu vận tải gồm 12 chiếc được hai tàu khu trục hộ tống, và đã tiêu diệt chúng, chỉ có ba tàu vận tải tìm cách chạy thoát. Đến ngày 12 tháng 12, bốn tàu khu trục Đức đã đánh chặn và tiêu diệt một đoàn tàu vận tải khác gồm năm chiếc và hai tàu khu trục hộ tống. Các tổn thất này đã buộc Đô đốc David Beatty, Tổng tư lệnh Hạm đội Grand, phải cho tách ra nhiều thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương để bảo vệ các đoàn tàu vận tải đi lại tại Bắc Hải.[22] Điều này đã phơi bày ra cho Đô đốc Scheer cơ hội mà ông đã chờ đợi trong suốt cuộc chiến: một dịp để cô lập và tiêu diệt một phần Hạm đội Grand.[23]

Lúc 05 giờ 00 ngày 23 tháng 4 năm 1918, toàn bộ Hạm đội Biển khơi, bao gồm Bayern và Baden, rời cảng với dự định đánh chặn một đoàn tàu vận tải được hộ tống mạnh nhất. Việc liên lạc vô tuyến được giữ ở mức tối thiểu nhằm tránh không cho phía Anh biết được về chiến dịch. Tuy nhiên, lúc 05 giờ 10 phút ngày 24 tháng 4, tàu chiến-tuần dương Moltke gặp trục trặc cơ khí nghiêm trọng và phải được kéo quay trở lại Wilhelmshaven. Đến 14 giờ 10 phút, vẫn không phát hiện thấy đoàn tàu vận tải, nên Scheer buộc phải cho quay mũi hạm đội quay trở về vùng biển nhà của Đức. Thực ra không có đoàn tàu vận tải nào khởi hành vào ngày 24 tháng 4, tình báo Hải quân Đức đã tính toán sai mất một ngày về chuyến đi này.[23]

Binh biến Wilhelmshaven

Bài chi tiết: Binh biến Wilhelmshaven

Bayern và Baden được dự định để tham gia hoạt động cuối cùng của hạm đội vào cuối tháng 10 năm 1918, nhiều ngày trước khi Hiệp định Đình chiến với Đức có hiệu lực. Reinhard Scheer, lúc này là Đại Đô đốc (Großadmiral) của Hạm đội và là Tham mưu trưởng Hải quân, dự định gây tổn thất cho Hải quân Anh càng nhiều càng tốt nhằm duy trì một vị thế mặc cả tốt cho việc thương lượng hòa bình của Đức bất chấp tổn thất có thể phải chịu đựng. Tuy nhiên, nhiều người trong số những thủy thủ cảm thấy chiến dịch này sẽ ngăn trở tiến trình hòa bình và kéo dài thời hạn chiến tranh.[24] Scheer thông qua kế hoạch vào ngày 27 tháng 10 và dự định tiến hành chiến dịch vào ngày 30 tháng 10. Tuy nhiên, khi hạm đội được lệnh tập trung tại Wilhelmshaven vào ngày 29 tháng 10, những thủy thủ đã mệt mỏi vì chiến tranh bắt đầu vắng mặt hay công khai bất tuân mệnh lệnh. Thủy thủ trên những chiếc König, KronprinzMarkgraf biểu thị thái độ một cách hòa bình, nhưng binh lính trên chiếc Thüringen là những người đầu tiên công khai nổi loạn, rồi sau đó có sự tham gia của HelgolandKaiserin.[25] Đến chiều tối ngày 29 tháng 10, lá cờ đỏ biểu trưng cho cách mạng được treo trên cột ăn-ten của khoảng một tá tàu chiến trong cảng. Dù vậy, Đô đốc Hipper vẫn triệu tập một cuộc họp cuối cùng với các sĩ quan cao cấp của hạm đội trên chiếc Baden để bàn luận về chiến dịch. Đến sáng hôm sau, rõ ràng là vụ binh biến đã tiến triển nghiêm trọng đến mức không thể tiến hành chiến dịch. Trong một nỗ lực dập tắt cuộc nổi dậy, ông ra lệnh cho một hải đội khởi hành đi Kiel.[26] Đến ngày 5 tháng 11, lá cờ đỏ được treo trên mọi con tàu trong cảng ngoại trừ König, cho dù nó cũng được chỉ huy bởi một ủy ban thủy thủ kể từ ngày 6 tháng 11.[27]

Số phận

Bayern đang đắm với đuôi chìm trước tại Scapa Flow

Sau khi Đức đầu hàng vào tháng 11 năm 1918, hầu hết tàu chiến của Hạm đội Biển khơi bị lưu giữ tại căn cứ hải quân Anh tại Scapa Flow.[28] Bayern nằm trong danh sách những con tàu phải được trao cho Đồng Minh quản lý, nhưng Baden thoạt tiên không có tên trong danh sách; thay vào đó người Anh yêu cầu giao tàu chiến-tuần dương Mackensen' mà họ tin là đã hoàn tất. Sau khi biết rõ là Mackensen vẫn còn đang được chế tạo, Baden được chọn để thay thế.[29] Vào ngày 21 tháng 11 năm 1918, các con tàu sẽ bị lưu giữ, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Ludwig von Reuter, lên đường lần cuối cùng từ căn cứ của chúng, để gặp gỡ tàu tuần dương hạng nhẹ Anh Cardiff, vốn đã dẫn đầu các con tàu Đức đi đến điểm gặp gỡ hạm đội Đồng Minh, một lực lượng khổng lồ bao gồm 370 tàu chiến của Anh, Mỹ và Pháp, vốn sẽ hộ tống hạm đội Đức đến Scapa Flow.[30] Baden đi đến nơi riêng lẻ vào ngày 14 tháng 12 năm 1918.[31] Khi bị lưu giữ trong suốt thời gian diễn ra các cuộc đàm phán hòa bình, mà sau này cuối cùng sẽ dẫn đến Hiệp ước Versailles,[32] các khẩu pháo của chúng bị bất hoạt bằng cách tháo bỏ khóa nòng, và con tàu được bảo trì bởi một thủy thủ đoàn tối thiểu gồm 200 sĩ quan và thủy thủ.[29]

Một bản in của báo The Times cung cấp thông tin cho von Reuter rằng Thỏa thuận Ngừng bắn sẽ hết hiệu lực vào giữa trưa ngày 21 tháng 6 năm 1919, thời hạn cuối cùng mà Đức phải ký vào Hiệp định hòa bình. Đô đốc Von Reuter đưa đến kết luận người Anh sẽ tìm cách chiếm hữu các con tàu Đức sau khi Thỏa thuận Ngừng bắn hết hiệu lực. Không biết rằng thời hạn của thỏa thuận đã được triển hạn đến ngày 23 tháng 6,[Ghi chú 4] ông quyết định đánh đắm các con tàu của mình vào cơ hội thuận tiện đầu tiên có được. Sáng ngày 21 tháng 6, Hạm đội Anh rời Scapa Flow tiến hành thực tập huấn luyện; và đến 11 giờ 20 phút Reuter truyền mệnh lệnh này đến các con tàu của mình.[32] Bayern chìm lúc 14 giờ 30 phút; nhưng Baden được các binh sĩ Anh canh gác cho mắc cạn tại vùng nước nông để tránh bị đắm, nó là chiếc tàu chiến chủ lực duy nhất không bị chìm. Sau khi được cho nổi trở lại và được khảo sát kỹ lưỡng, Baden được sử dụng như một tiêu thử nghiệm tác xạ, và cuối cùng bị đánh chìm vào ngày 16 tháng 8 năm 1921 về phía Tây Nam Portsmouth. Bayern cuối cùng được trục vớt để tháo dỡ vào ngày 1 tháng 9 năm 1934, việc tháo dỡ được tiến hành tại Rosyth.[7]

Cả Sachsen lẫn Württemberg đều bị rút khỏi Hải quân Đức theo những điều khoản của Hiệp ước Versailles. Sachsen bị bán để tháo dỡ vào năm 1920 cho hãng tháo dỡ tàu tại Kiel Arsenalmole; trong khi Württemberg bị bán vào năm tiếp theo và bị tháo dỡ tại Hamburg.[7]